TỔNG HỢP CÁC VẤN ĐỀ BÙN KHÓ LẮNG VÀ CÁCH XỬ LÝ
Hầu hết các hệ thống XLNT dùng bùn hoạt tính đều dựa vào bể lắng thứ cấp để lắng, tách các chất rắn sinh học. Tốc độ lắng chậm tạo ra bùn khó lắng là có rất nhiều nguyên nhân. Hầu hết chúng đều làm giảm sinh khối, giảm nồng độ MLSS trong bể sục khí. Một số kiểu bùn khó lắng, nguyên nhân và cách xử lý sẽ được đưa ra dưới đây:
Bùn lơ lửng:
Nguyên nhân: Bùn không thể tạo khối vì các sợi polyme có khả năng kết dính bị đứt gãy.
Tác hại: Đục nước thải đầu ra vì bùn chỉ lơ lửng mà không lắng, mức độ bùn hồi lưu thấp.
Xử lý: Bổ sung vi sinh có khả năng tạo ra polyme hữu cơ giúp kết bông tốt để tạo sinh khối => lắng tốt hơn.
Bùn nhớt:
Nguyên nhân: Trong sinh khối vi khuẩn sản xuất chứa quá nhiều polysaccharide ngoại bào (EPS). EPS bình thường hoạt động như một chất keo tụ để tăng kích thước và mật độ các khối bùn. Khi dư thừa, chúng gây ra hiện tượng các khối nhớt và dính lại như gel/thạch.
Tác hại: Điều đáng nói là các khối bùn này không lắng mà lơ lửng trong nước. Vì các khối lơ lửng khó bị phá vỡ ở dạng trạng thái gel, chúng làm chậm quá trình lắng của cả hệ thống.
Nghiêm trọng hơn là hình thành cặn bã và bọt nhớt
Xem thêm: Bọt nhớt nổi nhiều ở bể aerotank
Xử lý: Nếu dễ dàng nhìn thấy khối bùn,có thể vớt thủ công. Song song là bổ sung thêm vi sinh gốc như WWT. Dùng vi sinh gốc chỉ chứa các vi khuẩn để kiểm soát việc sản xuất EPS quá mức.
Bùn khó lắng dạng khối:
Đây là dạng bùn khó lắng dễ nhận thấy nhất vì chúng tụ lại thành những tảng lớn trên mặt nước.
Nguyên nhân: Tỷ lệ F/M thấp, thời gian lưu bùn (MCRT) cao => xuất hiện các khối bùn nhỏ dày đặc
Tác hại: Giảm SVI, SV30 trong nước. Làm đục bề mặt bể do toàn bộ bùn nổi lên trên.
Xử lý: Vớt bùn. Sau đó khôi phục hệ thống bằng cách điều chỉnh F/M về lại cân bằng. Dùng vi sinh khử BOD, COD trong nước thải
Bùn khó lắng dạng sợi:
Nguyên nhân: Gây ra do vi khuẩn sợi. Chúng phát triển khi trong bể dư thừa chất hữu cơ C,N, hoặc P.
Tác hại: Làm tăng cao quá mức SVI và SV30, xuất hiện bùn đáy. Nước thải đầu ra sẽ mang theo rất nhiều TSS.
Xử lý: Đưa tỉ lệ C:N:P về gần 100:5:1 nhất có thể.
Bùn lẫn với bọt và cặn bã:
Nguyên nhân: Trong nước thải chứa nhiều chất hoạt động bề mặt, dầu mỡ. Một phần do sự phát triển của vi khuẩn Nocardia sp. và một số loài sinh vật tạo bọt khác
Tác hại: Bọt nổi ở bể lắng mang các sợi bùn lơ lửng lên trên bề mặt. Bên cạnh đó chúng còn làm tăng TSS trong nước thải.
Cách xử lý: Các loại khuẩn này ổn định ở môi trường hiếu khí nên dù có sử dụng chất phá bọt cũng vô hiệu. Cách tốt nhất là đưa các vi khuẩn hiếu khí Bacillus sp vào để cạnh tranh dinh dưỡng. Khi Bacillus phát triển hơn chúng sẽ sử dụng toàn bộ dinh dưỡng trong bể. Ngược lại loài Nocardia sp sẽ mất nguồn thức ăn và tử vong
Xem thêm: Nhìn màu bùn đoán sức khỏe hệ thống
- Vì sao phải hạn chế chất rắn vào bể sinh học?
- Giảm amoni trong nước thải bệnh viện, phòng khám
- Tuổi Bùn Tốt Nhất Trong Quá Trình Bùn Hoạt Tính
- Màu Sắc Của Bọt Và Nước Nói Gì Về Hệ Thống?
- Các Ảnh Hưởng Của pH Tới Hiệu Suất Của Bể Sinh Học
- Có Nên Nâng Cấp Thêm Bể Hiếu Khí?
- Bùn Nổi Ở Bể Lắng Và Tích Tụ Dưới Đáy
- Tốc Độ Sinh Trưởng Của Vi Sinh Trong Nước Thải